Thụy nắm con Tề Thiên, muốn đặt nó lên vai của mình nhưng nó cố sống cố chết đứng trong gùi ôm ông Cả Phu không buông. Thụy trong lòng thầm mắng “Con tinh quái này nó khi mình là thương binh a”.
Hắn lẽo đẽo theo đi theo ông nội. Trong lòng hết
sức phân vân, dò dẫm mở lời với ông Cả, “Hôm qua mưa dữ quá hé nội!”
Ông Cả Phu trầm ngâm “Năm nào khoảng tháng này
cũng có dông lớn, ác liệt như hôm qua thì trước giờ ít thấy” rồi thở dài “Có điềm
động rừng, sắp tới coi bộ có chuyện xảy ra đa”
Thụy hơi giật mình. Hắn hoang mang về câu chuyện
mình gặp gỡ tối qua. Người đi núi không thiếu gặp mãng xà thú dữ, những câu
chuyện kể ba phần huyền hoặc về mãng xà, ông hổ, những bí ẩn hang ông Lang Bác
Vật, những truyền thuyết về huyễn linh, về bùa ngãi, về Thiên Thư, Thần Quyền...
được truyền tai nhau khắp xứ, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những người già ở
Xóm Núi thích kể chuyện xưa, đám trẻ con lại không thiếu tò mò về những huyền
bí, ly kỳ của xứ sở. Những câu chuyện từ hồi khai hoang mở cõi, thưở Phật Thầy
cứu dân truyền đạo, hồi theo Đức Quản Cơ chống Pháp... Bắt đầu là những câu
chuyện kể; rồi tiếp thời gian, nối thế hệ được nuôi dưỡng bằng niềm tin của
lòng thành kính, sự tri ân và những câu chuyện hóa thân thành truyền thuyết, dựng
lên trong lòng người Xóm Núi những thành lũy và tượng đài cao lớn, xa xưa và
linh thiêng. Họ biết dù họ không sờ, không chạm vào được, nhưng nó vẫn tồn tại
ngay-tại-đó.
Hắn vê vê vạt áo, ngước lên ông Cả Phu, “Tối
qua, nội có nghe tiếng gì không...?”
Thụy không chắc về độ chân thật của những câu
chuyện truyền thuyết. Có lẽ đó là cách những người lớn dạy đám con nít về sự
thiện lương, biết kính trọng và nhớ ơn, dũng cảm và mưu trí, biết tò mò và biết
hồ nghi, nhìn lớn lao vĩ đại mà thấy nhỏ bé khiêm cung, biết sơn lâm uy nghiêm
mà gần gũi... Sự huyễn hoặc và hồ nghi của truyền thuyết giống như là một dung
môi kỳ diệu, làm cho những bài học về đạo lý khô khan trở thành mềm mại, nhẹ
nhàng thấm vào lòng người như một dòng nước mát. Khi gạt bỏ sự huyễn hoặc đi rồi
thì truyền thuyết lại trở thành câu chuyện, những câu chuyện kỳ bí, những câu về
sơn lâm và những con người của núi rừng xứ này. Và Thụy tin những câu chuyện kỳ
bí như vậy. Nhưng giờ đây, hắn vẫn chưa biết phải bắt đầu câu chuyện như thế
nào nên lại mò mẫm đường đi.
Ông Cả Phu chợt đứng lại quay đầu nhìn cháu, sau
đó như cố ý phớt lờ, lừng chừng dò hỏi “Con lên núi gặp cái gì?”
Với Thụy, niềm tin là thứ lạ kỳ. Niềm tin không hẳn
là sự thật hay bằng chứng, nó không phải là có hoặc không, là đúng hay sai, mà
niềm tin bắt nguồn từ lý lẽ trong lòng mỗi con người. Người ta dùng khoa học đi
tìm tòi những chân lý, chứng minh những sự thật, nhưng trong lòng họ, khoa học tự
bản thân mình chưa bao giờ là cơ sở tuyệt đối của niềm tin. Như Thụy hay dùng
‘điển cố - con ma và thằng ngốc’ đùa với mấy đứa bạn ‘Nhân dân bảo có, nhà nước
bảo không, các nhà khoa học chưa xác định và tao tin’. Chuyện Thụy tin ai? Dân,
đảng hay nhà khoa học hay tin con ma thì còn là một ‘điều huyễn hoặc cần nghiên
cứu’ :D
Thụy bối rối, lại hỏi ông Cả “Trước giờ nội chạm
mặt... ông ba mươi lần nào chưa nội?”
Trong lòng mỗi con người, khi nghe thấy hay nhìn
thất một câu chuyện, đều có những giả thuyết riêng, lý trí của họ có những suy
diễn riêng và quan trọng hơn cả là trái tim của họ có những lý lẽ cùng với những
khao khát, mong chờ. Như Thụy, trước giờ vẫn tin vào sự tồn tại của sự bảo hộ của
Bạch Hổ, nhưng khi nhìn tận tay day tận mặt hắn lại không muốn tin, hoặc không dám
tin vào chính con mắt của mình; cũng có thể là tự sâu thẳm trong lòng, Thụy hy
vọng một điều gì đó không xảy ra. Cái kết cục mà Thụy nhìn thấy hoàn toàn không
phải là điều hắn mong muốn. Hắn cần một lời phủ nhận từ các bậc tiền bối, nhưng
hắn lại e sợ rằng đó lại là một lời xác định. Cho nên Thụy cứ mâu thuẫn và
hoang mang.
Ông Cả ngó ngó thằng
cháu, trong mắt hiện nét hồ nghi, nhưng vẫn chậm rãi như kể chuyện, như hồi tưởng
xa xưa “Xứ mình trước đây cọp nhiều lắm đa. Thời ông cố người đi rừng phải vác
sóc. Hồi nội 14-15 tuổi không biết nên không sợ, dắt con chó lần theo dấu chân
trên ổng in trên cứt trùng. Đến gần Vồ Đá Dựng, thì con chó không đi nữa, nó lẩn
quẩn bên chưn, kêu nó tránh nó không nghe, đánh thì nó bỏ chạy rồi đứng lại tru
lên có vẻ sợ sệt. Nội tức giận bỏ nó lại, một mình đi tiếp. Tới gần vách đá
nhìn xuống dưới miệng hang thời thấy ổng đứng đó. Ổng từ dưới miệng hang, phốc
một cú nhảy lên trên triền dốc cao chục mét. Lúc đó nội sợ run, chưng chạy
không nổi giống như bị trúng tà. Ổng đứng cách nội có 5-6m nhưng chỉ nhìn nhìn
nội rồi bỏ đi. Một hồi sau nội mới hồi thần, chạy về nhà. Con chó nghe mùi ổng
trên người nội nằm rúm ró không dám lại gần...”
(sóc: giống giáo lại giống côn, to bằng cườm tay, dài khoảng 2-3m,
làm bằng gỗ tốt, rất cứng rắn, một đầu vót nhọn, chủ yếu dùng để đối phó với
các cú vồ của hổ, báo. Khi đi rừng người ta vác xiên trên vai để phòng thú dữ vồ
từ phía sau, gặp hổ, người đi rừng ngồi xổm xuống, giữ mình trực diện với con hổ,
ôm sóc xiên khoảng 60 độ, hổ sẽ không dám vồ, người đi rừng cứ thế ‘phòng thủ’
chờ hổ bỏ đi, hoặc đồng bạn đến giúp đỡ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét